Đặc điếm Cá_dứa

Mô tả

Cá có hình dạng đầu (với các chỉ tiêu về tỉ lệ % chiều rộng mõm/chiều dài đầu: 40–53,4%, chiều rộng đầu/chiều dài đầu: 70,7–76,6 %), gai vi lưng. cá có vết tích hình rẻ quạt trên 2 nắp mang của cá và mờ dần khi cá càng lớn. Khi cá trưởng thành có thể nặng tới 15- 20 ký/con.[1] Cá dứa không có ngạnh, thịt béo ngọt, trắng hồng, ít mỡ, săn chắc, thơm ngọt và không tanh.[2]

Tập tính

Trong tự nhiên, chúng sống ở tầng nước khá sâu, trên sông Mekong. Cá dứa cũng như các loại cá khác trong họ Cá tra có tập tính di lưu sinh sản, khoảng tháng 5 đến tháng 10 cá con bắt đầu di chuyển dần ra vùng cửa sông giáp biển để sinh sống. Có tập tính di lưu sinh sản chia làm 02 nhóm:

  • Nhóm tập trung ở Lào và di chuyển lên thượng lưu sông Mekông vào tháng 4-5 để sinh sản
  • Nhóm di chuyển về hạ lưu đẻ trứng ở Campuchia vào khoảng tháng 5 - 8, đến tháng 9-10 cá con bắt đầu di chuyển dần ra vùng cửa sông giáp biển để sinh sống và tăng trưởng. Lúc đạt kích thước nhất định, cá quay trở lại vùng nước ngọt và di cư ngược dòng tìm nơi sinh sản.

Cá có thể thích nghi ở vùng nước mặn và lợ.[2] Trong môi trường nuôi nhốt, cá thích nghi, tăng trưởng tốt trong điều kiện nước lợ, có độ mặn: 5 – 18 %o[1] Ngoài thức ăn chính là động vật phù du, cá dứa còn ăn trái các loài cây vùng ngập mặn như: mắm, bần, ổi… nên còn có tên là "cá tra bần".[3]